“Bọn quỷ đã giết gia đình Cộng Sản Nguyễn Tuấn Đáng rồi Trần Đăng Ninh giả danh”
A.Bằng chứng:
“. Trước khi kết hôn với bà Nguyễn Thị Hồng, nhà cách mạng Trần Đăng Ninh từng có một đời vợ. Ông bà có với nhau hai người con gái. Nhưng sau này khi ông bị tù đày, vì hoàn cảnh cuộc sống, hai vợ chồng phải xa nhau…” (Văn bản 1- ảnh 1)
Nhận xét: Mất Vợ và 2 con.
Chỉ có thể hiểu đó là vợ con của ông Nguyễn Tuấn Đáng!
Chữa bệnh tại Trung Quốc rồi chết:
“thì Trần Đăng Ninh mắc bệnh hiểm nghèo, ông liên tục phải xa vợ con đi chữa bệnh. Quãng thời gian chữa bệnh ở Trung Quốc, dù ốm đau đến mấy, ông cũng dành thời gian viết thư về nhà cho vợ con.” (Văn bản 1)
Nhận xét: Trong gia đoạn này rất nhiều người Hô đưa sang TQ chữa bệnh rồi chết!
B.Tài liệu nghiên cứu.
Những câu chuyện về cuộc đời nhà cách mạng Trần Đăng Ninh
http://bantroi5.blogspot.com/2012/10/nhung-cau-chuyen-ve-cuoc-oi-nha-cach.html
Thứ sáu, ngày 26 tháng mười năm 2012
Kỳ 2: Nhà cách mạng Trần Đăng Ninh trong ký ức người ở lại
Khi nhà cách mạng Trần Đăng Ninh mất, ông dặn dò vợ con: sau khi ông mất, lập tức phải trả lại biệt thự, trả lại xe cho Nhà nước, vì đó là nhà của công, xe của công. Đến tận lúc chết, dù biết mình sẽ phải để lại cuộc đời người vợ trẻ và hai đứa con côi còn nhỏ dại, ông vẫn không hề nghĩ đến việc tơ hào một đồng, một xu của công, để vun vén cho cá nhân mình.
Vợ chồng nhà cách mạng Trần Đăng Ninh – những ngày ở Việt Bắc
Khi đi tìm những tư liệu về nhà cách mạng Trần Đăng Ninh, ngoài Thiếu tướng Nguyễn Hữu Lê- người từng là thư ký của ông, tôi đã có cơ hội gặp gỡ người bạn thân thiết của gia đình ông bà – bà Phan Thanh Hòa. Sau ngày Trần Đăng Ninh mất, theo nguyện vọng của chồng, bà Nguyễn Thị Hồng trả lại ngôi biệt thự trên phố Phan Đình Phùng, rồi đưa con cái đến sống trong một căn hộ tập thể nhỏ. Mãi sau này, bà và các con mới được cấp một ngôi nhà riêng trên phố Lý Nam Đế. Ngôi nhà đó chỉ cách ngôi nhà của bà Phan Thanh Hòa có mấy bước chân, nên có thể nói bà Hòa là người chứng kiến nhiều nhất cuộc sống gia đình Trần Đăng Ninh sau khi ông qua đời.
Bà Phan Thanh Hòa kể: “Tôi coi chị Hồng – vợ anh Ninh như chị gái. Cháu Châu Nguyên, Tuấn Quảng – con anh Ninh cũng coi tôi như mẹ nuôi. Khi anh Ninh mất, Tuấn Quảng mới 1 tuổi, Châu Nguyên 4 tuổi, nhưng có lẽ chị Hồng nuôi dạy con rất khéo, nên các cháu đều rất giống cha mẹ ở tính giản dị, khiêm tốn và sống rất trong sạch.
Tôi từng có một thời gian dài công tác với chị Hồng tại Vụ Giáo dục. Sau này, trường mầm non Việt Bắc được thành lập, chị Hồng về làm Hiệu trưởng và gọi tôi về cùng. Chị em tôi gắn bó với nhau suốt những năm tháng kháng chiến, cho đến sau này hòa bình vẫn là chị em thân thiết”.
Năm 1951, cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào một giai đoạn vô cùng khó khăn, thử thách. Vừa phải đối phó với kẻ thù là thực dân Pháp hùng mạnh, các cán bộ cách mạng còn phải chịu đựng cuộc sống thiếu thốn đủ điều về cả vật chất lẫn tinh thần. Trong hoàn cảnh đó, để đỡ đần các gia đình cách mạng, để các cán bộ cách mạng yên tâm làm nhiệm vụ, Bác Hồ đã giao cho Trần Đăng Ninh – khi đó vừa nhận chức Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp, chuẩn bị việc thành lập trường mầm non Việt Bắc. Sau một thời gian tìm địa điểm và công tác chuẩn bị, Trần Đăng Ninh đã đề nghị Đảng và Bác cho thành lập trại trẻ mẫu giáo đầu tiên, đặt tại đồi cọ bản Pìeng, thôn Tỉn Hỏa, xã Thanh Định, huyện Định Hóa, Thái Nguyên. Nhà trẻ được dựng bên đồi cọ, với 2 dãy nhà tranh nấp dưới các tán lá cọ bên dòng suối trong mát. Cách đó hơn cây số là đồi có lán ở của Bác Hồ và các đồng chí trong Bộ Chính trị. Phụ trách trại là bà Nguyễn Thị Hồng,; bà Hồ Thị Minh Nguyệt phụ trách chính trị; bà Vũ Thị Đơ, phụ trách nuôi dưỡng; cô giáo Phan Thanh Hòa, phụ trách giảng dạy. Ngày lễ Thiếu nhi Quốc tế 1/6/1952, khóa học đầu tiên đã khai giảng. Những lớp học sinh đầu tiên của trường mầm non Việt Bắc ngày ấy giờ đã trưởng thành, nhiều người thành đạt, nhưng tất cả họ đều nhớ về những người thầy, người cô đầu tiên của mình. Những dịp kỷ niệm thành lập trường, các cựu học sinh trường mầm non Việt Bắc vẫn tụ họp đông đủ, vẫn nhắc về cô giáo Hồng, cô Hòa, những người mà họ coi như mẹ….
Trường mầm non Việt Bắc ra đời, trở thành “ông tơ bà nguyệt” cho nhà cách mạng Trần Đăng Ninh với người vợ của ông sau này – bà Nguyễn Thị Hồng. Năm 1951, khi gặp bà Nguyễn Thị Hồng tại trường mầm non Việt Bắc, nhà cách mạng Trần Đăng Ninh đã có thiện cảm với cô hiệu trưởng xinh đẹp của trường mầm non Việt Bắc ngay từ buổi gặp đầu tiên. Sau này được bạn bè mai mối, ông bà đã nên duyên vợ chồng. Đám cưới giản dị được tổ chức ngay giữa chiến khu Việt Bắc. Trước khi kết hôn với bà Nguyễn Thị Hồng, nhà cách mạng Trần Đăng Ninh từng có một đời vợ. Ông bà có với nhau hai người con gái. Nhưng sau này khi ông bị tù đày, vì hoàn cảnh cuộc sống, hai vợ chồng phải xa nhau.
Bà Nguyễn Thị Hồng là con gái một gia đình dân nghèo ở Lào Cai. Sau này, bà thi đỗ và được học bổng toàn phần để theo học tại trường Nữ sinh Đồng Khánh – ngôi trường nổi tiếng sản sinh ra nhiều nữ trí thức của Việt Nam một thời. Trong kháng chiến chống Pháp, bà từng là Phó Ty Giáo dục Lào Cai, nhưng sau vì nhiệm vụ được phân công, bà chuyển về làm việc tại Vụ Giáo dục Mầm non.
Cùng dạy ở trường mầm non Việt Bắc ngày đó, nên bà Phan Thanh Hòa và bà Nguyễn Thị Hồng coi nhau như chị em thân thiết. Gắn bó với gia đình nhà cách mạng Trần Đăng Ninh suốt từ thời chiến tranh, bà Phan Thanh Hòa có rất nhiều kỷ niệm với gia đình ông. Bà kể: “Châu Nguyên – con gái của anh Ninh và chị Hồng coi tôi như mẹ nuôi, còn Tuấn Quảng khi chào đời, chính tôi là người đi chôn dây rốn. Năm ngoái có dịp trở lại Việt Bắc, hai cô cháu cùng đi, Tuấn Quảng hỏi tôi, cô còn nhớ chỗ cô từng chôn dây rốn của cháu không? Tôi cười, chỉ nhớ là chôn bên bờ suối, còn giờ nó ở đâu thì tôi chịu”.
Trong ký ức của bà Phan Thanh Hòa, nhà cách mạng Trần Đăng Ninh là một người sống rất giản dị, gần gũi và tình cảm. Ngày đó cơ quan của ông nằm cách trường khoảng 1km. Sau khi kết hôn, vợ chồng ông được cấp cho một cái gian nhỏ trong khu nhà cán bộ ở trường. Trần Đăng Ninh là một người luôn quan tâm đến những người xung quanh. Hôm nào đi làm về, dù bận rộn đến mấy thì sau khi hỏi han vợ con, bao giờ ông cũng phải đi hỏi thăm một vòng các chị em trong trường. Khi bà Nguyễn Thị Hồng mang bầu con gái Châu Nguyên, mọi người đến thăm, ông cứ luôn hỏi: mọi người đã đến thăm các chị em khác chưa? Đó là tính cách của Trần Đăng Ninh: luôn nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến gia đình, vợ con mình.
“Vợ chồng tôi đến với nhau, cũng là do anh Ninh tác hợp. Tôi nhớ hồi đó anh Ninh dí dỏm, hài hước lắm, có nhiều anh Ninh làm, khiến mọi người không thể nhịn cười. Khi anh Ninh làm mối tôi với chồng tôi bây giờ, tôi “chê lên chê xuống” vì người tuy đẹp trai nhưng…thấp quá. Một hôm tôi đi ngang qua cơ quan anh Ninh, vừa nhìn thấy tôi, anh gọi: “Cô Hòa, vào đây vào đây”. Nói rồi anh gọi chồng tôi ra, cụng đầu hai chúng tôi với nhau và tuyên bố: “Đấy nhé, cô cứ chê thấp, cao hơn 3cm còn gì?”. Sau vụ “cụng đầu” đó, chúng tôi thành vợ thành chồng. Quà cưới mà anh Ninh dành cho chúng tôi là một cái màn bộ đội. Tôi biết anh phải quý lắm mới dành cho vợ chồng tôi món quà đó. Vì thời chiến tranh, chức Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp của anh Ninh là “to” lắm. Nhưng chưa bao giờ anh ấy tơ hào bất cứ cái gì cho bản thân mình. Ở Việt Bắc muỗi nhiều, chăn màn rất quý, anh Ninh có thể cho vợ con mình một bộ chăn màn, nhưng anh ấy không làm thế. Bao giờ anh Ninh cũng nghĩ đến người khác trước gia đình mình, gia đình khác có chăn màn rồi, anh Ninh mới cấp cho gia đình mình” – Bà Hòa nhớ lại.
Khi còn sống, nhà cách mạng Trần Đăng Ninh rất chiều vợ, thương con. Không bao giờ ông nặng lời một tiếng với vợ con. Tuy nhiên, cuộc sống hạnh phúc của vợ chồng ông chưa được bao lâu, thì Trần Đăng Ninh mắc bệnh hiểm nghèo, ông liên tục phải xa vợ con đi chữa bệnh. Quãng thời gian chữa bệnh ở Trung Quốc, dù ốm đau đến mấy, ông cũng dành thời gian viết thư về nhà cho vợ con. Khi vợ ông mới sinh con trai Tuấn Quảng được một thời gian, bà Phan Thanh Hòa cũng đang mang bầu, bà đã rất bất ngờ và cảm động khi nhận được thư của ông từ Trung Quốc, hỏi thăm, chúc mừng bà.
Làm cách mạng không phải vì biệt thự, vì ô tô
Nhà cách mạng Trần Đăng Ninh là người có rất nhiều công lao trong việc xây dựng lên ngành Hậu cần quân đội, tạo nên hệ thống huy động và cung cấp vật chất cho các chiến dịch lớn, là một trong những yếu tố quan trọng để quyết định sự thắng lợi của các cuộc kháng chiến. Chỉ tiếc là sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, vừa trở về Hà Nội chưa được bao lâu, Trần Đăng Ninh lại mắc trọng bệnh và qua đời khi còn rất trẻ, không được chứng kiến những thành quả mà mình và các đồng chí cách mạng đã phải gian khổ mới giành được. Năm 1955, bệnh tình của Trần Đăng Ninh ngày càng nặng. Ông đã đấu tranh với bệnh tật rất kiên cường, vì thương người vợ còn quá trẻ và hai đứa con nhỏ dại. Nhưng ông không chiến thắng được số phận.
Khi còn sống, Trần Đăng Ninh là một người rất thương lính. Với cấp dưới, ông không bao giờ quát mắng. Nhưng ngày đó đồng chí Đinh Đức Thiện (sau này là Thượng tướng Đinh Đức Thiện – chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần) là một người rất nóng tính. Chuyện đến tai Trần Đăng Ninh, ông cho gọi đồng chí Đinh Đức Thiện lên, nhắc nhở: “Sao đồng chí hay quát mắng anh em lính tráng thế?”, đồng chí Đinh Đức Thiện gãi đầu ngượng ngịu: ‘Xin lỗi anh, tôi nóng tính quá. Lúc cáu lên là không kiềm chế được”. Trần Đăng Ninh càng nghiêm khắc hơn: “Thế lúc cáu, cậu có quát tôi, có quát anh Tô (Thủ tướng Phạm Văn Đồng – pv) hay không? Cậu rút kinh nghiệm ngay nhé”. Tuy bị thủ trưởng mắng, nhưng không vì thế mà đồng chí Đinh Đức Thiện tự ái. Thiếu tướng Nguyễn Hữu Lê kể là, ngày nhận được tin Trần Đăng Ninh mất, đồng chí Đinh Đức Thiện lập tức chạy đến. Nhưng khi đến nơi, ông ngồi ngoài cổng khóc rất lâu, đến khi cạn nước mắt mới vào. Trong lòng Thượng tướng Đinh Đức Thiện, dù có bị Trần Đăng Ninh nhắc nhở, phê bình, ông vẫn luôn tôn trọng, khâm phục người anh cả của lực lượng hậu cần.
Hồi mới về Hà Nội, gia đình nhà cách mạng Trần Đăng Ninh được bố trí chỗ ở tại một căn biệt thự trên phố Phan Đình Phùng. Những ngày cuối cùng, biết mình không còn sống được bao lâu nữa, ông đã dành thời gian dặn dò vợ con rất kỹ: sau khi ông qua đời, phải trả lại toàn bộ biệt thự, xe cộ cho nhà nước. Sau ngày ông mất, vợ ông đã làm đúng di nguyện của ông. Bà trả lại nhà, trả lại xe rồi cùng hai con về sống trong một căn hộ tập thể nhỏ. Mãi sau này, mẹ con bà mới được cấp một ngôi nhà trên phố Lý Nam Đế. Nhưng bà không bao giờ hé một lời than vãn, kêu ca. Bà làm theo di nguyện của chồng không một chút do dự, bởi bà hiểu chồng bà – nhà cách mạng Trần Đăng Ninh – đi làm cách mạng không phải vì biệt thự, vì ô tô, chỉ đơn giản vì tình yêu đất nước và khát khao được tham gia vào cuộc cách mạng đưa dân tộc đến với ngày tự do.
Nhà cách mạng Trần Đăng Ninh qua đời khi mới 45 tuổi. Sự ra đi của ông là một mất mát lớn với cách mạng, và cũng là một mất mát lớn với gia đình. Khi ông mất, bà Nguyễn Thị Hồng mới 35 tuổi, con gái Châu Nguyên 4 tuổi, con trai Tuấn Quảng mới được 1 tuổi. Dù vẫn còn trẻ, còn nhan sắc, nhưng sau ngày chồng mất, bà một mình ở vậy nuôi con, không đi bước nữa. Bà sống đến giờ phút cuối cùng trong đời với nỗi nhớ khôn nguôi về người chồng đã khuất.
Bà Phan Thanh Hòa bảo, khi bà Nguyễn Thị Hồng cùng con cái chuyển về sống trong ngôi nhà trên phố Lý Nam Đế, gia đình bà và gia đình bà Nguyễn Thị Hồng ở chung một ngõ. Bà vẫn thường xuyên qua lại gia đình, chứng kiến hai người con của nhà cách mạng Trần Đăng Ninh lớn lên từng ngày. Bà Phan Thanh Hòa kể: “Chị Hồng là một người cả đời hy sinh cho chồng con. Chị Hồng vốn xinh đẹp, lại là trí thức, nhưng ăn mặc và lối sống rất giản dị. Từ khi anh Ninh mất, chị càng giản dị hơn, vì muốn giữ gìn thanh danh cho chồng. Lúc nào chị ăn mặc cũng đơn giản, nhưng nhan sắc vẫn rạng rỡ. Mỗi khi đi đâu cần ăn mặc đẹp hơn ngày thường một chút, chị thường mượn đồ của tôi. Mãi sau này khi về già, tôi nói mãi, chị mới mua thêm vài bộ đồ cầu kì hơn một chút.
Tuy tiết kiệm cho mình, nhưng chị Hồng lại rất chăm lo cho con cái. Anh Ninh mất sớm, gánh nặng nuôi hai con đổ lên đầu chị Hồng. Những năm bao cấp, lương giáo viên của chị Hồng nuôi hai con vô cùng vất vả, nhưng may là chị Hồng được người chị gái kinh tế khá giả hơn giúp đỡ, nên cũng nhẹ gánh phần nào. Là nhà giáo nên chị Hồng rất ý thức chuyện học hành của con. Thời bao cấp khó khăn là vậy, chị Hồng vẫn cho các con học thêm nhạc rồi cố gắng mua bằng được cái đàn piano để cháu Châu Nguyên học đàn. Sau hòa bình, về Hà Nội học thêm rồi làm công tác giáo dục, đến lúc chuẩn bị được đề bạt, thấy hai con đi học ở trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi, chị Hồng lại bỏ cả sự nghiệp của mình để về trường Trỗi công tác, để có thời gian gần gũi con cái. Sự hy sinh mà chị Hồng dành cho chồng con là không thể kể hết được”.
Có lẽ đến lúc sang thế giới bên kia gặp chồng, bà Nguyễn Thị Hồng đã có thể yên lòng nhắm mắt vì cả đời bà, thành công lớn nhất có lẽ là đã nuôi dạy hai con rất đàng hoàng. Con cái bà khi trưởng thành không làm ông to bà lớn, không làm chức nọ tước kia, nhưng đều là những người sống có tâm, có đức, tự phấn đấu đi lên bằng nghị lực của mình, không dựa vào danh tiếng của cha và chưa bao giờ phải hổ thẹn mỗi khi đứng thắp hương trước bàn thờ cha mẹ.
Nhà cách mạng Trần Đăng Ninh đã qua đời 57 năm, nhưng những người đồng chí, đồng đội từng sống bên cạnh ông, vẫn không ngưng kể về ông và chưa bao giờ nguôi đi nỗi tiếc nuối cho một người Cộng sản có Tài, có Đức, nhưng lại ra đi khi còn quá trẻ. Trong những trang sách viết về Trần Đăng Ninh mà tôi đọc được, do những người đồng chí đồng đội của ông kể lại, tôi hiểu được thêm về một con người cách xa tôi cả một thế hệ, một con người tôi chưa từng gặp nhưng vô cùng kính trọng.
Ông Hoàng Đình Phu – nguyên trưởng phòng Kế hoạch Tổng cục Cung cấp, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước kể rằng, dù Chủ nhiệm Trần Đăng Ninh đã qua đời rất lâu, nhưng những anh em cán bộ ở Tổng cục Cung cấp vẫn vô cùng nhớ người thủ trưởng đầu tiên, vô cùng đáng kính, nhưng cũng vô cùng giản dị của mình. Nhớ đến ông khi những ngày ông còn sống, trong buổi họp hay liên hoan của cơ quan, dù là người giữ cương vị rất cao trong Đảng và trong Quân đội, nhưng khi cấp dưới mời ông, bao giờ ông cũng đến đúng giờ hoặc trước giờ, không bao giờ đến trễ để mọi người phải đợi; Nhớ ông vì mỗi lần đến sớm, ông thường ngồi trên một cái ghế tựa vào tường, nói chuyện với anh em, không phân biệt trên dưới, cao thấp; nhớ ông vì nếu anh em có mời ông vào dãy ghế trên mỗi lần họp, ông đều cười xòa: “Nếu các anh tôn trọng thủ trưởng, muốn cho ngồi chỗ danh dự, thì thủ trưởng ngồi đâu, chỗ ấy là chỗ danh dự, sao cứ phải là dãy ghế đầu?”, và thế là ông vẫn ngồi nguyên ở hàng ghế đó, giữa anh em, thân mật và gần gũi như những người đồng đội bình thường, chứ không phải là cấp trên, cấp dưới.
HTN
Nhà cách mạng Trần Đăng Ninh– vị ’Bao công’ của Việt Nam
Thứ Hai, 22/10/2012,
(Người nổi tiếng) – Năm 1955, khi mới 45 tuổi, nhà cách mạng Trần Đăng Ninh (Tổng cục trưởng đầu tiên của Tổng cục Cung cấp – nay là Tổng cục Hậu cần – Bộ Quốc phòng) – đã qua đời sau một cơn bạo bệnh.
Trần Đăng Ninh
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_%C4%90%C4%83ng_Ninh
Trần Đăng Ninh (1910–1955), nhà hoạt động cách mạng và quân sự, Chủ nhiệm đầu tiên của Tổng cục Cung cấp (sau là Tổng cục Hậu cần) Quân đội Nhân dân Việt Nam (1950-1955).
Ông còn có tên gọi khác Nguyễn Tuấn Đáng, quê tại xã Quảng Phú Cầu, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội. Tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1936.
Năm 1939, ông là Ủy viên Thành ủy Hà Nội, tham gia lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân. Năm 1940, ông là ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ. Khi khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ, ông được cử về Bắc Sơn tham gia lãnh đạo phong trào cách mạng, lập ủy ban cách mạng, tổ chức du kích, xây dựng căn cứ Ngũ Viễn – Vũ Lăng. Tháng 5 năm 1941, ông là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ.
Ông bị thực dân Pháp bắt giam hai lần (1941, 1943), kết án tù 20 năm khổ sai rồi tù chung thân và hai lần vượt ngục. Tháng 3 năm 1943, ông vượt ngục lần thứ nhất, nhưng đến tháng 9 năm đó thì bị bắt lại. Tháng 3 năm 1945, sau khi vượt ngục lần hai, ông được cử làm ủy viên Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, phụ trách chiến khu Hoàng Hoa Thám. Tháng 8 năm 1945, ông được cử vào Tổng bộ Việt Minh, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông được cử làm Đặc phái viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào công tác ở Trung Bộ và Nam Bộ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao nhiệm vụ đặc trách xây dựng căn cứ địa Việt Bắc, Trưởng ban Kiểm tra của Trung ương Đảng, Phó Tổng thanh tra Chính phủ (1946-1949).
Năm 1950, ông được điều sang công tác quân đội, giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp (sau là Tổng cục Hậu cần), Ủy viên Tổng quân ủy (1950-1955), kiêm Trưởng ban Cung cấp chiến dịch Biên giới (1950). Trong Đại hội Đảng lần thứ II, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Ông cũng chính là nguời xây dựng hệ thống dân công tiếp tế, một yếu tố dẫn đến thắng lợi cho chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tuy nhiên, do sức khỏe kém, ông mất sau khi về tiếp quản Hà Nội một thời gian ngắn.